Làm mất Bắc triều Mạc_Mậu_Hợp

Trong một thời gian khá dài từ cuộc tranh chấp giữa anh em họ Trịnh, quân Nam không đủ khả năng tấn công ra bắc. Tuy nhiên sau khi Mạc Kính Điển mất, quân Nam triều bắt đầu phản công trở lại và dần dần chiếm ưu thế trên chiến trường. Mạc Mậu Hợp không chú trọng tới chính sự càng khiến tinh thần quân bắc kém đi.

Kinh thành khói lửa

Cuối năm 1591, Trịnh Tùng khởi đại quân, chia thành nhiều đội đánh ra bắc.[11] Mạc Mậu Hợp huy động toàn quân Bắc triều từ 4 trấn được hơn 10 vạn người, hội Hiệp Thượng, Hiệp Hạ để quyết chiến với quân Nam Triều. Mậu Hợp sai Mạc Ngọc Liễn giữ Tây đạo, Nguyễn Quyện giữ Nam đạo, bọn Ngạn quận công, Thủy quận công chỉ huy binh mã Đông đạo; Đương quận công, Xuyên quận công chỉ huy binh mã Bắc đạo; Khuông Định công, Tân quận công chỉ huy binh mã 4 vệ. Mạc Đăng Lượng đưa hàng vạn quân chỉ một đêm đã đào sông và lập nhiều thành lũy ở vùng Duyên Hà (nay là Hậu Tái, Thái Bình), gọi là "Sông nhà Mạc" và "Nhất dạ Thành". Còn tự mình đích thân đốc suất trung quân; hậu đội thì trong có các tông thất họ Mạc và các tướng túc vệ ở Đông đạo đi sau tiếp chiến.[12]

Ngày 27 tháng 12 năm 1591, quân Mạc đi đến Phấn Thượng gặp quân Lê-Trịnh, cùng dàn trận. Mạc Ngọc Liễn bên phải, Nguyễn Quyện bên trái. Hai bên đánh nhau to suốt từ hôm đó sang tận đầu năm sau, tới ngày 3 tháng 1 năm 1592, quân Mạc thua trận. Mạc Mậu Hợp bỏ kinh thành chạy sang Bồ Đề, để Mạc Ngọc Liễn và các tướng ở lại chống giữ. Ngọc Liễn lĩnh quân bản bộ giữ từ cửa Bảo Khánh tới cửa Nhật Chiêu, Trần Bách Niên và Bùi Văn Khuê giữ từ Cầu Da tới Cầu Dền; Nguyễn Quyện giữ từ Mạc Xá sang phía đông kinh thành.[13]

Ngày 6 tháng 1, hai bên hỗn chiến một trận ác liệt nữa. Trịnh Tùng tiến đến gò tập bắn (Giảng Võ, Hà Nội) bày trận, chia đường cho các tướng tiến đánh. Trần Bách Niên và Bùi Văn Khuê thua trận bỏ chạy, Nguyễn Quyện đặt phục binh không kịp trỗi dậy nên bị bắt; Mạc Ngọc Liễn cô thế phải bỏ lũy rút lui. Thành Đông Kinh thất thủ. Mậu Hợp thu nhặt tàn quân giữ ở sông Hồng để cố thủ. Trịnh Tùng tuy đánh thắng liên tục nhưng do lực lượng chưa đủ nên đành lui về Thanh Hóa; lại hỏi kế của Nguyễn Quyện. Nguyễn Quyện tìm cách hoãn binh để giúp họ Mạc, nên khuyên sang phẳng lũy đất thành khiến cho nhà Mạc dù có quay về cũng không còn gì để làm căn cứ được nữa. Trịnh Tùng nghe theo, liền hạ lệnh quân sĩ trong mấy ngày liền phát hết bụi rậm gai góc, cày lấp hào rãnh, phá thành thành đất bằng.[14]

Mạc Mậu Hợp thấy quân Nam rút, cho rằng quân Nam yếu. Khi trở về kinh thành, ông lại hưởng lạc như cũ, không lo lắng việc phòng chống quân Nam và tổ chức phản công.

Ham sắc hại mình

Nguyên lão tướng Nguyễn Quyện sinh được hai con gái. Con gái lớn là Hoàng hậu Nguyễn Thị của Mạc Mậu Hợp, con gái thứ Nguyễn Thị Niên là vợ tướng Bùi Văn Khuê. Tháng 8 năm 1592, Nguyễn Thị Niên vào cung thăm chị, Mạc Mậu Hợp thấy sắc đẹp của thị Niên nên muốn chiếm đoạt, bèn triệu vào phòng để giữ lại trong cung tới sáng rồi giữ luôn, dự định triệu Bùi Văn Khuê về kinh để giết. Nguyễn Thị Niên sợ hãi bèn sai người hầu cận mật chạy đi báo cho Bùi Văn Khuê. Bùi Văn Khuê biết chuyện, bèn dẫn quân bản bộ về giữ hạt Gia Viễn, không theo mệnh lệnh của triều đình. Mậu Hợp mấy lần vời cũng không tới, bèn sai tướng dẫn quân tới hỏi tội Văn Khuê.[15]

Tháng 10 năm 1592, Bùi Văn Khuê trưng binh chống giữ, và sai con trai chạy tới hành doanh, yết kiến phủ Trịnh Tùng, khóc lóc tố cáo sự tình, xin đầu hàng và xin cho quân cứu viện. Thế là Bùi Văn Khuê cùng cánh quân thủy, vốn là sở trường của quân Mạc, về hàng Nam triều. Trịnh Tùng bèn sai Hoàng Đình Ái dẫn một đạo quân đi trước, để cứu Bùi Văn Khuê và khởi đại binh theo sau. Một đại tướng khác là Trần Bách Niên thất vọng vì Mạc Mậu Hợp cũng sang hàng Nam triều. Liên tiếp hơn 10 tướng Mạc sang hàng Lê. Tình hình nhà Mạc ngày càng nguy cấp, khi đó trong triều chỉ còn trông cậy vào một mình Mạc Ngọc Liễn.[15]

Ngày 14 tháng 11, quân Nam triều chia hai đường thủy bộ cùng đánh từ Hát Giang. Mạc Ngọc Liễn dàn chiến thuyền chống cự, trồng cột gỗ dưới lòng sông, đắp lũy trên bờ cố thủ. Trận chiến diễn ra ác liệt từ ngày 4 đến 14 tháng 12 năm 1592. Tới ngày 14 tháng 12 lũy quân Mạc bị quân Nam triều phá, Ngọc Liễn bỏ thuyền chạy về núi Tam Đảo, quân Mạc tan vỡ.[16]

Lập con thay ngôi

Ngày 14 tháng 11 (âm lịch), Trịnh Tùng đích thân đốc bộ binh, thừa thế đuổi dài, thủy quân cũng thuận dòng xuôi xuống, tới cửa Nam kinh thành Đông Kinh, đóng tại bến Sa Thảo, bắt được hơn nghìn chiến thuyền, kể cả lớn nhỏ. Đêm đó, Mạc Mậu Hợp bỏ kinh thành Đông Kinh chạy trốn sang Kim Thành (Hải Dương). Hoàng tộc họ Mạc lần lượt tìm đường bỏ trốn, trong khi hàng loạt tướng sĩ nhà Mạc theo nhau đầu hàng quân Nam triều. Từ đây quân của nhà Mạc hết phần chiến đấu, từ sông Hồng trở về Bắc quân sĩ kéo nhau ra quy thuận Nam triều.[17] Ngày hôm sau đó, Trịnh Tùng hạ lệnh đem hơn 300 chiến thuyền đánh phá huyện Kim Thành. Mậu Hợp phải bỏ thành trốn chạy, quân Nam triều thu được rất nhiều vàng bạc của cải, đồ dùng, bắt được Thái hậu nhà Mạc giải về Đông Kinh,[18] khi đến sông Bồ Đề, Thái hậu vì quá sợ mà chết.[19]

Ngày 25 tháng 11 (âm lịch), Mạc Mậu Hợp dựng con trai là Mạc Toàn làm vua để giữ việc nước, đổi niên hiệu là "Vũ An" năm thứ nhất, còn bản thân tự làm tướng, quản đốc binh mã chống giữ quân Nam triều. Tuy nhiên tới lúc đó chính sự nhà Mạc đã không thể cứu vãn được nữa, quân Nam triều đánh quá gấp, trong khi quân đội nhà Mạc thì đã tan rã, nhiều người đã đầu hàng. Đầu tháng 12 (âm lịch), Trịnh Tùng chia quân đánh các ngả, phá tan quân của một hoàng thân nhà Mạc là Mạc Kính Chỉ, thu được vô số khí giới và sai quân đi truy lùng bắt Mậu Hợp.[20] [21][18][19]

Làm sư chẳng thoát

Khi Trịnh Tùng từ sông Tranh về Thăng Long, nghe có người báo rằng Mạc Mậu Hợp cạo đầu làm sư, ẩn ở chùa Mô Khuê hạt Phượng Nhãn.[20] Trịnh Tùng bèn sai Nguyễn Đình Luận và Lưu Chản dẫn quân đi tìm bắt. Dân địa phương cho biết:[21]

Hôm nọ Mậu Hợp giả làm ông sư, đến ẩn ở đây, đến nay đã 11 ngày.

Quân Nam bèn tìm đến chùa. Lúc đó Mạc Mậu Hợp đang nghiễm nhiên ngồi xếp bằng tròn, gạn hỏi thì Mậu Hợp ấm ớ đáp rằng:

Bần tăng tu hành từ hồi còn trẻ tuổi ở am mây này; chén muối, đĩa rau hàng ngày trai dưỡng; thắp hương thờ phật, công đức chuyên làm.

Quân Nam triều thấy nhà sư nói hoạt bát khiêm tốn, biết là Mậu Hợp, bèn bắt giữ. Ông tự liệu không thể thoát được, bèn thú thực và nói rằng:

Mấy ngày trước đây, tôi chạy trốn ẩn núp trong rừng rậm, đã quá đói khát, dám xin cho một bình rượu uống cho đã.

Quân sĩ bèn cho bình rượu. Sau khi Mậu Hợp uống thỏa thích, ngậm ngùi than rằng:

Nghiệp chướng quá sâu! Nay cầu làm một người dân thường, cũng không thể được. Tội lỗi chỉ vì tổ tiên đã làm sự giết vua cướp ngôi, đến nỗi con cháu ngày nay phải mắc tội nặng như vầy. Mong tướng sĩ dẫn tôi đến trước Hoàng đế, để bầy tỏ thực tình. Đó là lòng tôi rất mong muốn!

Quân Nam triều bèn sai dùng voi chở Mậu Hợp và 2 kỹ nữ, giải về Thăng Long. Khi ông tới trước hành doanh, Trịnh Tùng sai dàn binh mã cực kỳ uy nghiêm, rồi mới cho dẫn Mậu Hợp vào yết kiến. Mậu Hợp lễ dập đầu phủ phục ở ngoài sân. Trịnh Tùng truyền hỏi tới 3 lần, Mậu Hợp vì quá sợ, cứ ấm ớ không thể đáp được, Trịnh Tùng bèn sai dẫn ra ngoài cửa quân, giam tù tại đây.

Tất cả các quan văn võ của Nam triều đều bàn:

Chiếu điều luật, những kẻ phạm tội thoán thí,[22] thì xử theo luật "lăng trì",[23] để làm gương cho mọi người, và đúng phép nước; lại đem thủ cấp tế cáo nhà Tôn miếu, để rửa sỉ nhục của Tiên vương, và bớt cơn giận của thần nhân.

Trịnh Tùng thấy Mạc Mậu Hợp về hàng, không nỡ gia cực hình, bèn sai đem treo sống Mậu Hợp 3 ngày, rồi chém đầu tại bãi cát Bồ Đề, đem thủ cấp dâng lên vua Lê Thế Tông tại hành tại Vạn Lại ở Thanh Hoa, đem đóng đinh vào hai con mắt, rồi bêu ra ngoài chợ. Con trai ông là Toàn đặt niên hiệu là "Vũ An", nhưng không được lòng người, thế cô ngầm trốn, không lâu sau cũng bị quân Nam triều bắt được, đem chém đầu tại bến Thảo Tân.[24]

Mạc Mậu Hợp ở ngôi vua cộng 29 năm, thọ 30 tuổi. Theo các sử sách chính thống của Việt Nam, vì ông bị giết và sau khi ông chết, nhà Mạc cũng mất nên không được đặt miếu hiệuthụy hiệu. Tuy nhiên, theo công trình nghiên cứu của GS TSKH Phan Đăng Nhật, miếu hiệu của Mạc Mậu Hợp là Mục Tông, thụy hiệu đầy đủ là "Anh Tổ Tĩnh Hoàng đế" (英祖靜皇帝).[25] Còn theo học giả Trung Quốc Ngưu Quân Khải thì miếu hiệu của Mạc Mậu Hợp là Anh Tổ, thụy hiệu đầy đủ là An Thiên Huy Địa Trang Văn Cẩn Vũ Bình Định Huệ Cương Hiếu Tĩnh Hoàng Đế (安天徽地庄文勤武平定惠疆孝静皇帝)[26]

Sự thất thế của Mạc Mậu Hợp trước hết là sống xa hoa, cái sai lầm căn bản là kiêu ngạo nên ít chịu nghe lời bàn về việc quân cũng như việc triều chính của các bậc lương thần, rồi sau đó là dùng Mạc Đôn Nhượng – một con người thiếu bản lĩnh, nhu nhược – làm phụ chính nên dẫn tới sự thất bại.

Tuy nhiên, sau cái chết của cha con ông, nhà Mạc không mất hẳn mà vẫn cát cứ tại Cao Bằng thêm hơn 80 năm nữa.

Theo gia phả họ Ngô Mạc Vĩnh Phúc và tâm linh thì ngài Mạc Mậu Hợp thực tế không phải bị bắt ở Chùa Bồ đề sau đưa về Thanh Hóa hành hình đóng đinh vào mắt... như sử nhà Lê đã ghi, thực chất đó là người giả, xác giả được dựng rồi phao tin lên; vua Mạc Mậu Hợp không bị bắt, không dễ bị bắt như vậy... Bên thắng cuộc đương thời, các sử gia Lê-Trịnh viết vậy là để đánh sập ý chí Quan quân, Võ tướng nhà Mạc muốn phục hưng triều Mạc... Các bậc Tiên đế khuyên con cháu họ Mạc hãy tìm ngài linh thiêng xưa ở ẩn các chùa vùng xứ Kinh Bắc.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Mạc_Mậu_Hợp http://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/sach/dvs... http://www.informatik.uni-leipzig.de/~duc/sach/dvs... http://www.nomfoundation.org/nom-project/History-o... http://www.vanlangsj.org/tailieu/vstt.pdf http://tuoitre.vn/tin/chinh-tri-xa-hoi/phong-su-ky... http://vanhien.vn/news/Nha-Mac-voi-3-thoi-ky-lich-... http://vanhien.vn/news/Su-that-ve-vua-Mac-Mau-Hop-... https://book.douban.com/subject/20505129/ https://quangduc.com/images/file/2UUVHLok0AgQAEAb/... https://quangduc.com/images/file/KZPU77gk0AgQAKVI/...